Saturday, September 5, 2009

Giải Thể Chế Độ Cộng Sản --A. Giải Toả Huyền Thoại Hồ Chí Minh

Sách Biên Khảo


Giải Thể Chế Độ Cộng Sản

                                                                         Luật sư Nguyễn Hữu Thống, 2002



A.  GIẢI TỎA HUYỀN THOẠI HỒ CHÍ MINH

 

                   Để xây dựng uy tín cho Hồ Chí Minh, Đảng CS đã sử dụng nhiều chiêu bài và ngụy tạo nhiều huyền thoại:

                        1) Ngụy tạo huyền thọai truyền thống gia đình cách mạng.

                        2) Ngụy tạo huyền thoại lên đường cứu nước.

                        3) Tiếm danh Nguyễn Ái Quốc

                        4) Giả danh Trần Dân Tiên

                        5) Giả đoàn kết quốc gia

                        6) Giả hiệp ước quốc tế

                        7) Ngụy tạo tư tưởng Hồ Chí Minh


                                           

 1)     Ngụy tạo huyền thoại truyền thống gia đình cách mạng


            Các nhà sử học Cộng Sản thường trình bày rằng Hồ Chí Minh xuất thân từ một gia đình cách mạng, thân phụ là phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy, là bạn đồng khoa với Phan Chu Trinh và thường giao kết với Phan Bội Châu là người đồng hương. Sau khi được bổ nhiệm tri huyện Bình Khê, Nguyễn Sinh Sắc đã tự ý từ quan để phản kháng chế độ thực dân phong kiến.

 Sự thực không phải như vậy. Dầu là một sĩ phu đỗ đại khoa, Nguyễn Sinh Sắc đã không có một đời sống cá nhân đứng đắn. Ông thường say rượu và trong những lúc nóng giận đã có thái độ thô lỗ và đánh đập con cái. Năm 1910, cũng vì say sưa, Nguyễn Sinh Sắc đã quá tay đánh chết một nghi can là Tạ Đức Quang. Cũng vì vậy mà ông bị triều đình tuyên phạt 100 trượng, giáng 4 cấp, cách chức tri huyện và sa thải khỏi quan trường. Sau này ông được miễn hình phạt 100 trượng vì không có hành vi cố ý. Dầu sao ông đã làm nhục giới nho sĩ vì đã không biết tu thân trước khi trị quốc. Vì việc sỉ nhục này đối với sĩ lâm và bà con bạn bè lối xóm, ông đã dắt các con rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để đi tha phương cầu thực, làm nghề bốc thuốc tại miền Nam.


            Sự thật lịch sử này đã được chứng minh bằng một văn thư do Hồ Chí Minh dưới tên Paul Tất Thành viết từ Nữu Ước ngày 15-12-1912 gửi Khâm Sứ Trung Kỳ xin cho cha được phục chức và được làm thừa biện, giáo thụ hay huấn đạo để có phương tiện mưu sinh. Do đó, truyền thống gia đình cách mạng của Hồ Chí Minh chỉ là một huyền thoại (Chính Đạo: Hồ Chí Minh: Con người và huyền thoại).

 

2) Ngụy tạo huyền thoại lên đường cứu nước  


Các nhà sử học CS còn trình bày rằng năm 21 tuổi Hồ Chí Minh rời bến Nhà Rồng Saigon xuất dương lên đường cứu nước. Thời gian này, phong trào kháng thuế tại Quảng Nam và các tỉnh miền Trung đã bị dập tắt. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội đã bị thâu hồi giấy phép và tại Nhật Bản, Phan Bội Châu, Cường Để cùng 200 sinh viên du học Việt Nam đã bị trục xuất. Năm 1911, Hồ Chí Minh theo gương Phan Chu Trinh tìm đường qua Pháp để học hỏi tinh thần tự do dân chủ, hy vọng có ngày trở về giải phóng đồng bào khỏi ách đế quốc tư bản.


             Đây cũng chỉ là một huyền thoại. Do đơn ngày 15-9-1911, Nguyễn Tất Thành xin Bộ Thuộc Địạ Pháp đặc cách cho theo học Trường Thuộc Địa "để trở nên người hữu ích cho nước Pháp (utile à la France)". Trường Thuộc Địa là trung tâm đào tạo các cán bộ hành chánh và giáo dục của chế độ thuộc địa. Theo quy chế, các sinh viên phải được sự giới thiệu của nhà chức trách Đông Dương. Nhiều vị khoa bảng và trí thức nổi tiếng đã theo học trường này như Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Thân Trọng Huề, Bùi Quang Chiêu, Bùi Bằng Đòan v...v... Vì không đúng thủ tục, đơn của Nguyễn Tất Thành đã bị bác bỏ và huyền thoại Hồ Chí Minh từ bến Nhà Rồng xuất dương lên đường cứu nước đã bị giải tỏa.


 

3) Tiếm danh Nguyễn Ái Quốc-
                Mạo nhận tác giả Thỉnh Nguyện Thư

    cuả Dân Tộc Việt Nam năm 1919


            Trong 3 năm từ 1911 đến 1914, Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp tại các tầu buôn thuộc hãng Les Chargeurs Réunis chạy quanh các nước Âu Châu, Phi Châu và Mỹ Châu. Khi Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ, Nguyễn Tất Thành sang Anh làm phụ bếp tại nhà hàng Carlton và trở về Paris năm 1917. Trong thời gian này LS Phan Văn Trường đã thành lập Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước để đấu tranh công khai đòi tự trị và độc lập cho Việt Nam. Cùng với Phan Chu Trinh, ông đã nhiều lần đến điều trần tại Quốc Hội Pháp để trình bày quan điểm về chính sách bảo hộ của Pháp tại Việt Nam và đạo đạt các nguyện vọng của người dân Việt Nam lên Quốc Hội Pháp do lời mời của  lãnh tụ Đảng Xã Hội Pháp Jean Jaures là người đã can thiệp với Thủ Tướng Pháp để ân xá cho Phan Chu Trinh.


            Nguyễn Ái Quốc là bút hiệu chung của bộ ba Phan văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành. Nguyễn là dòng họ đa số tại Việt Nam và Ái Quốc là phỏng theo tên Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước. Với bút hiệu này, họ đã viết những bài bình luận trên các báo của Đảng Xã Hội như Nhân Loại (L'Humanité), Dân Chúng ( Le Populaire)...


Mặc dầu vậy, Hồ Chí Minh đã tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, trong cuốn "Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch", Hồ Chí Minh viết: "Khi chiến tranh chấm dứt, tại Hội Nghị Hoà Bình Véc Xây, Tổng Thống Mỹ Wilson nói về 14 điều. Các đại biểu các dân tộc bị áp bức đến để yêu cầu độc lập và tự do. Trong số đó, có Nguyễn Ái Quốc (tức là Anh Ba hay Hồ Chí Minh). Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước tại Paris và ở các tỉnh khác. Với danh nghĩa của tổ chức này, ông đã đưa yêu cầu 8 điều ra trước Hội Nghị Véc Xây". Đây chỉ là một sự mạo nhận và tác giả thỉnh nguyện thư là luật sư Phan Văn Trường. Vì những lý do sau đây:


            a) Thỉnh Nguyện Thư được soạn thảo nhân danh Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước, một tổ chức do Phan Văn Trường thành lập năm 1914 tại Paris, khi Nguyễn Tất Thành còn ở Luân Đôn.

            b) Thỉnh Nguyện Thư đề cập đến những nguyên tắc pháp lý mà trong thời gian đó (1919) chỉ các luật gia và chính trị gia mới thấu hiểu như quyền bình đẳng trước pháp luật, chế độ pháp trị, chế độ tòa án đặc biệt, quyền dân tộc tự quyết v..v...


            c) Đề nghị thành lập Phái Bộ Thường Trực Dân Cử Việt Nam tại Quốc Hội Pháp là do sáng kiến của Phan Văn Trường. Vì từ năm 1911 cùng với Phan Chu Trinh, theo lời mời cuả Jean Jaures, ông đã nhiều lần đến điều trần tại Quốc Hội Pháp, để đạo đạt những nguyện vọng của nhân dân Việt Nam lên quốc hội.


            d) Nguyễn Tất Thành chỉ là một học sinh vừa qua bậc tiểu học và không có kiến thức chính trị. "Ông rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là công hội, thế nào là bãi công, và thế nào là chính đảng... Ông không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay... Ông lắng nghe những buổi thảo luận nhưng không hiểu rõ về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản v.v... ông nhức đầu vì khó hiểu". Vả lại vốn liếng tiếng Pháp của ông chỉ gồm những chữ thông dụng trong đời sống hằng ngày học từ những cô sen trong giới bình dân (Trần Dân Tiên, sđd).


            e) Trần Dân Tiên còn nêu lên yêu cầu bãi bỏ chế độ sưu dịch, thuế đinh, thuế muối và việc bắt ép dân mua muối và thuốc phiện. Điều khoản này không thấy trong bản Thỉnh Nguyện Thư đăng trên báo L'Humanité ngày 18-6-1919 và trong nguyên bản tiếng Pháp (Chính Đạo: sđd).


            Nói tóm lại, trái với lời Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh không phải là tác giả Thỉnh Nguyện Thư của Dân Tộc Việt Nam. Và năm 1919 Hồ Chí Minh cũng chưa phải là Nguyễn Ái Quốc. Đây chỉ là một sự mạo nhận tư cách của Nguyễn Tất Thành, một kẻ ít học nhưng nhiều tham vọng.


Năm 1917, khi từ Luân Đôn trở về Paris, Nguyễn Tất Thành tá túc tại nhà Luật sư Phan Văn Trường số 6 Villa des Gobelins. Năm 1914, Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường bị bắt giam về tội phản nghịch (tình nghi liên lạc với Cường Để tại Berlin). Sau 9 tháng điều tra hai nhà chí sĩ họ Phan đã được miễn tố (Phan Chu Trinh chủ trương hợp tác với Pháp đánh Đức cũng như Gandhi hô hào thanh niên Ấn Độ tình nguyện gia nhập quân đội Hoàng Gia Anh).


Mặc dầu vậy, hai vị vẫn bị cảnh sát điều tra theo rõi. Mỗi khi có trát đòi Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành đứng ra nhận trát, tự xưng là Nguyễn Ái Quốc. Ông nói "Nguyễn Ái Quốc chính là tôi, các ông cứ đưa trát cho tôi, đừng làm phiền chú/bác tôi (ý nói Phan Văn Trường hay Phan Chu Trinh)". Năm 1920, Nguyễn Tất Thành bỏ Đảng Xã Hội để gia nhập Đảng CS dưới tên Nguyễn Ái Quốc.

 

            4) Giả danh Trần Dân Tiên


            Các nhà sử học cho rằng Hồ Chí Minh là người thông minh nhưng là sự thông minh ngoài phố. Sự khôn ngoan giảo quyệt này đã được biểu lộ rõ nét nhất trong cuốn "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" cuả Trần Dân Tiên xuất bản và tái bản nhiều lần từ 1948 đến 1976. Ngày nay ai cũng biết Trần Dân Tiên là Hồ Chí Minh. Trong lịch sử văn học thế giới, không thấy một nhà văn tự trọng nào lại giả danh bằng một bút hiệu để tự đề cao và thần thánh hóa mình. Dùng bút hiệu thật để nói về mình cũng là vạn bất đắc dĩ vì cái tôi thường đáng ghét. Dùng bút hiệu giả để tự đề cao và thần thánh hóa mình thì quả là đáng ghét.


             Chúng ta thử đánh giá sự khiêm tốn của tác giả:


            "Nhiều nhà văn nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhưng mãi đến nay chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất đơn giản: Chủ Tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình (...) hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau 80 năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp đi đã (...). Với đức tính khiêm tốn nhường ấy, và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc làm sao Hồ Chủ Tịch có thể kể lại bình sinh của Người được".


Thế nhưng Hồ Chủ Tịch đã đại ngôn:


"Khi còn là một thiếu niên 15 tuổi, người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh khâm phục các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hòang Hoa Thám nhưng không hòan toàn tán thành cách làm của 3 người, vì:


            - Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương.

            - Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Chẳng khác gì đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau.

            - Cụ Hoàng Hoa Thám còn nặng cốt cách phong kiến".


            Năm 1905, khi Hồ Chí Minh 15 tuổi, cụ Phan Chu Trinh chưa viết Đầu Pháp Chính Phủ Thư (l906), chưa phát động phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục (l907). Vậy mà Hồ Chí Minh đã phê phán chính sách canh tân và giáo dục của cụ là cải lương (mà cải lương thì đã sao?).

            Chưa thấy cụ Phan Bội Châu rước cọp vào nhà, chỉ thấy Hồ Chí Minh cõng rắn CS về cắn gà nhà, gây tai hại vô lường cho đất nuớc và dân tộc.


            Năm 1945 khi mới 55 tuổi, Hồ Chí Minh tự phong mình là "cha già của dân tộc". Ông còn tự thần thánh hóa mình kể rằng "chân dung Hồ Chủ Tịch được treo trên bàn thờ giữa những bình hương hoa đèn nến".


            "Hồ Chủ Tịch được nhân dân yêu mến là do lòng hy sinh và lòng nhân từ của Người. Chủ Tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân (...). Đối với nhi đồng, tên Bác Hồ là như một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn".

            Vậy mà người cha già (67 tuổi) đã nhẫn tâm để đàn em hạ sát người vợ trẻ đã sinh cho mình đứa con trai là Nguyễn Tất Trung. Năm l957, khi cô Nguyễn thị Xuân yêu cầu công khai hoá cuộc hôn phối đã kéo dài trên 2 năm, Hồ Chí Minh vẫn ngọt ngào giả lả: "Cô xin như vậy là hợp tình hợp lý nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hòang Quốc Việt đồng ý mới được". Do đó, cô đành phải chờ một thời gian. Trong thời gian này, cô đã biến thành chướng ngại vật làm mất uy tín của lãnh tụ. Theo đúng phương châm hành động, tất cả những chướng ngại vật làm cản trở con đường của lãnh tụ đều sẽ bị thanh toán và vô hiệu hóa.


            Thanh toán trước hết bằng cách hạ nhục đối phương, cho viên tướng công an Trần quốc Hoàn mặc sức hãm hiếp. Rồi cho thủ hạ chùm chăn lên đầu và dùng búa đánh vỡ sọ nạn nhân (như vụ Staline hạ sát Trotsky tại Mexico).     Một người có những thủ đoạn bất nhân như vậy, mà bộ máy tuyên truyền của CS còn đề cao như một vị anh minh kết tinh được "những đức tính từ bi của Đức Phật, công bằng bác ái của chúa Ki Tô, sự minh triết của Khổng Tử, sự siêu thóat của Lão Trang".


Ngoài ra, Trần Dân Tiên còn tự sánh mình với Mặc Tử là người đã mòn trán lỏng gót, bôn ba khắp nơi để lo cho Thiên Hạ. Điều đáng nói là trong khi Mặc Tử chủ trương hòa bình, thì Hồ Chí Minh cổ võ chiến tranh. Trong khi Mặc Tử theo thuyết kiêm ái, yêu dân tộc, yêu nhân loại, thì Hồ Chí Minh gieo rắc căm hờn, thúc dục thú tính để phát động đấu tranh giai cấp và thủ tiêu những đồng bào yêu nước theo chủ nghiã dân tộc.

 

            5) Giả đoàn kết quốc gia


            Khi hay biết phe Thế Giới Dân Chủ không chịu trao Đông Dương cho Đảng CSĐD vì họ không muốn Staline mở rộng bức Màn Sắt từ Đông Âu qua Đông Á, ngày 11-11-1945 Nguyễn Ái Quốc giả bộ giải tán Đảng CSĐD để thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Các Mác. Để có chính nghiã đoàn kết quốc gia, Hồ Chí Minh mời Nguyễn Hải Thần thuộc Cách Mạng Đồng Minh Hội và Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng tham gia chính phủ liên hiệp.


Trong Tuyên Cáo Đoàn Kết ngày 24-12-1945, Hồ Chí Minh cam kết tôn trọng sự đoàn kết cuả các đảng phái quốc gia để tranh thủ độc lập, "Vì độc lập quốc gia là cứu cánh tối hậu cần phải tranh thủ và chỉ có sự hợp tác và hữu nghị chân thành giữa những người Việt Nam mới có thể đạt được độc lập quốc gia". Ông còn lên án mọi hành vi phá hoại tình đoàn kết quốc gia cũng như việc dùng võ lực để tiêu diệt các đảng phái quốc gia.


            Vậy mà sau đó như Trần Dân Tiên đã vu oan giá hoạ "bọn phản động Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam được Trung Hoa Quốc Dân Đảng giúp đỡ đã có âm mưu phá hoại và Hồ Chủ Tịch đã phải nhường cho họ 70 ghế quốc hội".


            Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny công nhận Việt Nam là một quốc gia tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được đổ bộ Hải Phòng và được đồn trú tại Bắc Việt trong thời hạn 5 năm.


            Tháng 5-1946, Hồ Chí Minh qua Paris thương nghị. Phái đoàn Việt Nam đáng lẽ do ngoại trưởng Nguyễn Tường Tam lãnh đạo, nhưng trước đó: "Bộ Trưởng Tam đã bỏ trốn". Và mùa hè năm đó, Vũ Hồng Khanh cũng đã bỏ trốn sang Tàu. Sau khi tống xuất quân đội Trung Hoa, CS thẳng tay đàn áp và thủ tiêu các cán binh Quốc Dân Đảng và Cách Mạng Đồng Minh Hội. Như vậy, Tuyên Cáo Đoàn Kết ngày 24-12-45 chỉ nhằm thành lập chính phủ liên hiệp làm bình phong thương nghị với Pháp. Rồi nhờ Pháp tống xuất Tàu cho Đảng CS rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia để được độc quyền lãnh đạo.


Trong Thế Chiến Thứ Hai, để được sự yểm trợ cuả Đồng Minh, Staline đưa ra chính sách thân thiện với Anh Pháp. Đảng CS Pháp phối hợp hoạt động với Đảng Xã Hội trong Mặt Trận Bình Dân. Phe CS Việt Nam cũng đã hợp tác với phe Tân Tả Phái của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch để thành lập Mặt Trận Dân Chủ và xuất bản tờ La Lutte (Tranh Đấu). Trong những cuộc bầu cử Hội Đồng Đô Thành Saigon và Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, liên danh Tranh Đấu của Tạ Thu Thâu đã tòan thắng.


Đây là giai đoạn đấu tranh công khai, ôn hòa, hợp pháp và bất bạo động. Chính sách đoàn kết quốc gia một lần nữa được áp dụng. Nguyễn An Ninh thuộc phe Trung Hoà, Tạ Thu Thâu thuộc phe Tân Tả Phái và Nguyễn Phan Long thuộc phe Lập Hiến đã đứng ra tổ chức Đông Dương Đại Hội để đạo đạt những thỉnh nguyện của nhân dân Việt Nam tới phái đoàn quốc hội từ Paris sang.


     http://3.bp.blogspot.com/_GX0AKwVsQM0/SnvSS1zCnyI/AAAAAAAAF90/2C4Tc9m_cL8/s400/HoChiMinhtoidodantocVN.bmp

Vậy mà, sau khi cướp được chính quyền, Đảng CS đã phản bội lời giao ước đoàn kết và đã thủ tiêu Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo v.v... là những người quốc gia yêu nước thuộc các nhóm Tân Tả Phái và Lập Hiến.

            Về việc hạ sát Tạ Thu Thâu, Hồ Chí Minh còn giả nhân nghĩa tiếc Tạ Thu Thâu là người yêu nước. Nhưng ông lại thêm rằng những ai chống lại chính sách của ông đều sẽ bị vô hiệu hoá. Sau khi Staline thủ tiêu người chiến hữu đàn anh của mình là Trotsky năm 1940, tất cả phe tân tả phái Trotskit đều phải bị thanh toán và triệt hạ uy tín.

            Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn cho hạ sát Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ cùng các lãnh tụ các đảng phái quốc gia như Trương Tử Anh (Đại Việt), Lý Đông A (Duy Dân), Khái Hưng, Nhượng Tống (Quốc Dân Đảng) v...v...

 

            6) Giả hiệp ước Quốc Tế


            Theo sách lược CS, ký hiệp ước không phải để thi hành hiệp ước. Vì hiệp ước ngoại giao chỉ là phương tiện để thực thi mục tiêu chính trị:

            - Ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny l946 nhờ Pháp tống xuất Tàu để được độc quyền lãnh đạo, sau khi đã thanh toán các đảng phái quốc gia. Sau đó lại phát động chiến tranh.

            - Ký Hiệp Định Đình Chiến Genève 1954 để tống xuất Pháp và cướp chính quyền tại Miền Bắc. Sau đó lại tái phát động chiến tranh.

            - Ký Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 để tống xuất Mỹ. Sau đó lại  tái phát động chiến tranh để thôn tính Miền Nam.

 

7) Nguỵ tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.


            Sau cuộc cách mạng giải thể CS tại Đông Âu, chủ nghĩa CS đã bị nhân dân thế giới vứt vào thùng rác lịch sử. Tại Đức, quê hương của Karl Marx, chủ nghĩa Mác xít đã bị phủ định và được thay thế bằng chủ nghĩa dân chủ tự do hay dân chủ xã hội. Tại Nga, quê hương của Lênin, chủ nghĩa Lênin cũng đã bị phủ định để thay thế bằng chủ nghĩa dân chủ tự do hay dân chủ xã hội.


Trước sự phá sản tinh thần của chủ nghĩa Mác Lê, Đảng CS đã ngụy tạo cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh, một điều mà chính Hồ Chí Minh thời sinh tiền cũng không bao giờ đề cập đến. Ông ta chỉ nói đến chủ nghĩa Mác Lê, tư tưởng Mao Trạch Đông, và tác phong Hồ Chí Minh. Ông nhìn nhận rằng, về phần tư tưởng, "Bác Mao đã viết cả rồi nên tôi không còn gì để viết nữa". Do đó ông chỉ thực thi trung thành những nguyên lý Mác Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông.


Ông hết sức tán tụng Staline và Mao Trạch Đông, ông viết: "Mao Trạch Đông đã đông phương hóa chủ nghĩa Mác Lê và đã đưa cách mạng Trung Quốc đến thành công. Cách mạng Việt Nam phải học tập và thực sự đã học hỏi rất nhiều từ cuộc cách mạng Trung Quốc. Các nhà cách mạng (CS) Việt Nam phải ghi nhớ điều này và phải biết ơn Mao Trạch Đông về sự đóng góp to lớn này".


 Thật vậy, Hồ Chí Minh không có tư tưởng gì đặc sắc. Ông chỉ là người khéo sao chép lại.

            Những mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc ghi trong các tiêu đề chánh thức của nhà nước chỉ là phỏng theo 3 cương lĩnh của chủ nghĩa Tam Dân do Tôn Dật Tiên đề xướng trong Cách Mạng 1911: "Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do và Dân Sinh Hạnh Phúc".


            Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Hồ Chí Minh tuyên đọc ngày 2-9-1945 cũng là sự sao chép Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ theo đó: "mọi người sinh ra bình đẳng và được Tạo Hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Thêm vào đó là lời mở đầu Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp 1789 (chứ không phải 1791 như Hồ Chí Minh đã ngộ nhận): "mọi người sinh ra tự do và bình đẳng và luôn luôn được tự do và bình đẳng".


            Dùng giả nhân nghĩa là ngụy quân tử. Nhưng khéo ngụy trang Hồ Chí Minh đã viện dẫn tư tưởng minh triết của các nho gia trong việc giáo hóa, trị dân và dựng nước như: "Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân, không lo nghèo mà lo không đều, mười năm trồng cây, trăm năm trồng người" v...v....


            Về mặt kiến thức, Hồ Chí Minh thú nhận ông không am tường chính trị và nhức đầu khi nghe nói về những vấn đề lý thuyết chủ nghĩa. Ông chỉ là người cán bộ thừa hành trung thành và tận tụy của Stalin và Mao Trạch Đông. Nhờ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền ông nổi danh vì bút hiệu chung Nguyễn Ái Quốc. Từ đó, ông được giới thiệu với các lãnh tụ Xã Hội và CS Pháp như Léon Blum, Marcel Cachin v.v... Từ một tiểu trí thức, ông đã bước lên địa vị một cán bộ CS quốc tế, phụ trách vùng Đông Nam Á.


            Trong khi các lãnh tụ CS Á Châu khác như Roy tại Ấn Độ hay Malaka tại Nam Dương đều bị thất sủng dưới bàn tay sắt của Staline vì họ có những tư tưởng hướng về chủ nghĩa dân tộc và chủ thuyết Hồi Giáo, thì Hồ Chí Minh đã một lòng một dạ chung thủy với Quốc Tế CS.


             Dầu không có tư tưởng chính trị đặc sắc nhưng Hồ Chí Minh đã thành công trong việc:

            - Dùng ngụy trang và dối trá (ngụy chủ nghĩa dân tộc)

            - Lấy giả nhân và giả nghĩa (bằng các chiêu bài độc lập, tự do, hạnh phúc, đoàn kết, hòa giải, hòa hợp)

            - Để giành chính nghĩa (giải phóng dân tộc, giải phóng lao động)

            - Và cướp chính quyền ( và không chia sẻ quyền hành với bất cứ ai).


                      http://vietnamaaa.numeriblog.fr/.a/6a00d83451bf6469e20115715d797f970c-500wi


SỰ NGHIỆP HỒ CHÍ MINH.

 

            "Thay vì là một anh hùng dân tộc đưa đất nước thoát khỏi cảnh nô lệ để có dân chủ và tiến bộ trong một nền văn minh tổng hợp kết tinh các truyền thống dân tộc và các giá trị tân tiến của một quốc gia hiện đại.


            Thay vì phục vụ mục tiêu độc lập quốc gia để giành quyền tự quyết cho dân tộc với tự do tuyển cử, tự do lựa chọn những người lãnh đạo trong một chế độ pháp trị và trên căn bản nhân sinh cố hữu của dân tộc, Hồ Chí Minh đã phủ nhận chủ nghĩa dân tộc để xếp Việt Nam vào hàng ngũ Quốc Tế CS và cưỡng bách áp đặt trên đầu nhân dân chế độ độc tài Staline với những vụ hành quyết, những trại tập trung hay trại cải tạo làm tha hóa con người, những vụ thủ tiêu cá nhân và tàn sát tập thể trong một bộ máy cầm quyền hủ hóa, một xã hội kiểu gia binh triệt để tuân hành mệnh lệnh của Mạc tư Khoa.


            Cũng vì vậy trong thế kỷ này, Hồ Chí Minh đã triệt để áp dụng đường lối Quốc Tế CS, dùng tuyên truyền lung lạc để vận dụng sức mạnh của quần chúng với những nguyện vọng tự nhiên về độc lập, tự do, hạnh phúc, phồn vinh, tiến bộ, rốt cuộc chỉ để phục vụ những mục tiêu chiến lược của Quốc Tế CS hoàn toàn đối nghịch với những nguyện vọng tha thiết của người dân. Và khi mọi người nhìn ra sự lường gạt gian trá này thì việc đã rồi và guồng máy độc tài thống trị đã khép kín, cửa lồng chim đã đóng chặt rồi.


            Không có sự man rợ nào quỷ quyệt hơn là việc lợi dụng tấm lòng hào hiệp quả cảm của hàng triệu con người tận tụy với những nhiệt tình tha thiết và chính đáng nhất. Và thay vì tự do, chỉ thấy nô lệ; thay vì hạnh phúc, chỉ thấy nghèo đói; thay vì tự hào dân tộc, chỉ thấy tủi nhục con người; thay vì tình thương bác ái chỉ là tội ác dã man.


Hệ thống CS có lẽ là hệ thống giết người tàn bạo nhất trong lịch sử loài người. Tới năm 1980, hơn 2 tỷ người còn bị nô lệ bởi hệ thống dã man, tàn ác và ngu xuẩn đó. Ngày nay, kết quả vẫn còn đó: nô lệ, xương máu, chết chóc, đói khổ. Cuộc đấu tranh chống đế quốc đã đem lại những kết quả tai hại như vậy. Và Hồ Chí Minh không thể phủ nhận tội trạng mà cũng không được hưởng trường hợp giảm khinh. Vì đây là một vụ tính tóan, một vụ lừa bịp trắng trợn..."

--- (Jean-Francois Revel 1990).



 

HỒ CHÍ MINH:  KẺ GÂY THẢM HỌA.

 

            Trong bài "Bắt Trẻ Đồng Xanh" phổ biến hồi tháng 10/1968 khi Hội Nghị Hòa Bình Paris được triệu tập, Võ Phiến đã vạch trần kế hoạch thôn tính Miền Nam của Hồ Chí Minh từ 1954.

 

            1954: chuẩn bị chiến tranh.


            "Cuộc bắn giết sắp tới giữa miền Nam và miền Bắc đã được Cộng Sản xếp đặt từ lúc này, cũng như cuộc bắn giết thê thảm mười năm qua được họ xếp đặt từ trước tháng 7/1954 nghĩa là trước ngày đình chiến theo Hiệp Định Genève.


            Khi họ nhận thấy không thể thôn tính cả nước Việt Nam một lần, thì họ đã đặt ngay vấn đề: còn lại nửa nước kia, phải giải quyết ra sao? Và họ đặt kế hoạch "giải quyết", cùng lúc với kế hoạch điều đình. Nghĩa là vào năm 1954.


            Thật vậy, hiệp định đình chiến vừa ký kết (Hiệp Định Genève 1954) thì những điều khoản ngưng chiến được thi hành đồng thời với những điều chuẩn bị chiến tranh.

            Lúc ấy chính quyền quốc gia lo tổ chức cuộc di cư cho đồng bào miền Bắc.

            Cũng lúc ấy, cộng sản lo liệu công việc của họ có lớp lang:


            - Vũ khí, họ chôn giấu lại một số ở miền Nam;

            - Cán bộ và binh sĩ, họ chọn lựa một số cho ở lại: có hạng được bố trí để len lỏi nằm vùng tại các cơ quan quốc gia, có hạng lộ hình tích cho đổi vùng hoạt động.

            - Địa chủ, phú nông, bị ngược đãi tù tội, đều được tha thứ, dỗ dành để xoá bỏ hận thù. Những thành phần không dỗ dành được thì họ thủ tiêu.

            - Tập kết theo nguyên tắc: đưa ra Bắc hạng trai trẻ có năng lực, uy tín và khả năng, gây phân ly chia cách để mọi gia đình đều có người đi kẻ ở.


            Gấp rút tạo liên hệ giữa thành phần thanh niên tập kết ra Bắc và dân chúng miền Nam: đặc biệt là tổ chức những đám cưới tập thể cấp tốc khiến hàng chục vạn binh sĩ và cán bộ Việt Cộng ra đi bỏ lại trong Nam bấy nhiêu cô vợ trẻ, có những cô chỉ ăn ở với chồng được đôi ba hôm.

            Bấy nhiêu cô vợ trẻ và gấp đôi gấp ba chừng ấy cha mẹ già cùng cô cậu chú bác v...v... là một lực lượng đáng kể để chuẩn bị chiến tranh.


            Ngay từ đầu, tình cảm của những người này hướng về Bắc, theo bóng kẻ thân yêu. Do đó, họ thành một khối người dần dần sống cách biệt, nếu không là đối lập với chính quyền Miền Nam. Rồi một ngày kia, chuyện được tính trước đã xảy ra: gia đình có đứa con hay người chồng ra Bắc năm 1954, hai năm sau, một đêm nào đó, có kẻ lạ mặt lẻn vào nhà, lén lút trao một lá thư và một tấm hình mới nhất của con hay chồng từ Bắc mang vào.


Gia đình nọ làm sao tố giác kẻ lạ mặt? Đã không tố giác, tất phải che dấu, nuôi dưỡng. Từ việc này đến việc khác, gia đình nọ dần dần đi sâu vào sự cộng tác với tổ chức bí mật của đối phương, chịu mệnh lệnh của họ, rốt cuộc gia nhập vào hàng ngũ của họ.


            Gây được cơ sở quần chúng, bấy giờ các lực luợng vũ trang tại chỗ bắt đầu được thành lập, các lực lượng vũ trang ngòai Bắc kéo vào. Sau đó mới có cái Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ra đời.

            Như vậy, cuộc chiến hiện nay không hề khởi đầu từ những bất mãn chống một chế độ độc tài gia đình trị, không hề khởi đầu từ sau việc chính quyền Saigon từ chối tổng tuyển cử 1956, không hề khởi đầu từ ngày khai sanh Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.


            Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết. Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vã sau ngày đình chiến, những đám cưới tập thể do trưởng cơ quan, trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào 1958, 1959 mà là những cô gái tức khắc biến thành goá bụa từ 1954.

 

1968: Bắt Trẻ Đồng Xanh.

            Năm 1968 trong giai đoạn ác liệt sau cùng của chiến cuộc, đảng CS đã khổ công gom góp thiếu nhi miền Nam đưa ra Bắc, trải qua bao nhiêu gian nan khó nhọc, trong những điều kiện di chuyển nguy hiểm đến nỗi cả các binh sĩ khỏe mạnh của họ cũng phải hao mòn suy kiệt dọc đường.

            Họ đang ra sức thực hiện một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum đến Mỹ Tho, Cà Mâu. Người ta gặp những tóan trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Căm Bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường mòn Hồ Chí Minh.


            Trẻ bị bắt có hạng mới tám chín tuổi. Như vậy, không phải để bổ sung quân số mà là tổ chức cuộc chiến mai sau.

            Điều đình để nghỉ ngơi, đối với Mỹ và chúng ta là thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Điều đình đối với cộng sản là bỏ cuộc nửa chừng, là đành không ăn được keo này. Thua keo này họ bày liền keo khác ngay, vì ngưng chiến theo họ, là một sự dở dang, là chưa hòan tất công việc.


            Ý tưởng về ngưng chiến của chúng ta dính liền với mơ ước xây dựng, trao đổi kinh tế, trao đổi văn hóa... Ý tưởng về ngưng chiến của cộng sản dính liền với một cuộc tấn công quân sự. Và những nạn nhân đầu tiên của trận chiến tương lai là những đứa bé con và bố mẹ chúng đã chịu đau thương từ những tháng qua. Chiến tranh tương lai đã chọn nạn nhân của nó trong đám trẻ thơ, đàn bà miền Nam để biến họ thành con côi vợ goá.


            Nếu vạn nhất trong thời gian năm bảy năm sắp tới mà đất nước này thóat khỏi một trận chiến nữa thì đó là ý trời, không phải là ý của họ đâu.


            Ý của họ nó tàn nhẫn đến nỗi chúng ta không dự liệu tới, không tưởng tượng được.

            Năm 1954, sau chín năm ê chề mòn mỏi vì chiến tranh, thấy hòa bình ai nấy nhẹ nhõm; nếu có kẻ nào lúc đó mà xếp đặt một cuộc tàn sát nữa, kẻ ấy tất gan đồng dạ sắt. Thì Hồ Chí Minh đã xếp đặt cuộc tàn sát ngay vào thời kỳ ấy.


            Năm 1968, sau hăm ba năm chiến tranh thảm khốc, nghe nói hòa bình mọi người mừng rơn. Nghĩ tới hàng triệu người đã bỏ thây trong thời gian qua, ai cũng tưởng làm người Việt Nam mà có kẻ dám để ý nghĩ mon men đến chiến tranh nữa, thì kẻ ấy mặt dầy mày dạn, tán tận lương tâm. Thì Hồ Chí Minh chính đang xếp đặt thêm một cuộc chiến.


            Vậy mà ông ta vẫn an nhiên hưởng sự trọng vọng của bao nhiêu người, kể cả người Việt Nam. Cho hay cái sản phẩm quái dị của thế kỷ này là tuyên truyền chính trị. Nó có một ma lực mê hoặc phi thường. Nó là một thứ tuyên truyền một chiều, qui mô toàn diện, sử dụng các nguồn lợi kinh tế như tại Nga Xô, Trung Cộng, Bắc Việt, Đức Quốc Xã v.v...


            Và Hồ Chí Minh không phải chỉ được thứ tuyên truyền ấy xóa cho mình cái chân tướng hiếu sát phi nhân. Ông ta còn hóa thành thiên tài lỗi lạc dưới mắt nhiều người vì đã tổ chức giặc giã trong một phần tư thế kỷ để giành nửa nước.


Trong khi tại khắp các nước Á Phi, những lãnh tụ bất tài nhất cũng dần dần thu hồi được độc lập vẹn toàn cho quốc gia họ với những tổn thất nhẹ hơn nhiều. Ông ta còn hoá thành chính trị gia khôn ngoan, thành "cha già dân tộc"ở dưới mắt nhiều người. Trong khi ở các xứ khác cũng lâm vào tình trạng lưỡng phân, không có chính quyền nào nỡ giải quyết tình trạng một cách bất nhân đến thế, trải bao nhiêu năm cứ nhất mực khăng khăng chủ trương hết cuộc tàn sát này đến tàn sát nọ, không một mảy may sờn lòng xúc cảm trước cảnh chết chóc thê thảm.


            Người như thế, không biết lòng dạ ra sao, tim óc ra sao. Bảo rằng cùng trong một người, vừa chứa đầy những kế hoạch xua đồng bào mình vào chiến tranh liên tiếp vừa có chỗ cho tình yêu thương đồng bào, thật không thể hiểu thấu.


            Những lời trên đây không được nhã nhặn. Quả thật không nhã nhặn. Và kẻ viết ra phải lấy làm ngượng về lời lẽ mình. Nhưng khi mình là dân một nước đã trải qua bao nhiêu năm khói lửa, rồi lại trông thấy trước mắt một viễn tượng đầy máu me, khi ấy nói về kẻ gây thảm họa thật khó giữ lòng bình thản để nói lời tao nhã.


            Có thể nào không giận? Ông ta bảo phải đeo đuổi cuộc tàn sát nọ là vì nguyện vọng dân tộc? Trời, dân tộc này ai cũng xưng biết rõ vanh vách nguyện vọng, ai cũng đòi hành động nhân danh nguyện vọng người dân; có điều mỗi người nêu lên một nguyện vọng khác nhau, hòan toàn khác nhau, lắm khi mâu thuẫn nhau. Đâu là nguyện vọng đích thực, để hồi sau phân giải. Cái chắc chắn là dân tộc này không hề nằng nặc thiết tha với cộng sản đến nỗi chịu chết năm ba thế hệ liên tiếp để rước kỳ được chế độ ấy về. Và ông ta chừng ấy tuổi rồi (78 tuổi), tai nghe mắt thấy đã nhiều, từng trải việc đời đã nhiều, ông ta đâu còn ngây thơ mà quáng mắt vì những danh từ khóac lác, những hứa hẹn hão huyền xa xôi của một chủ thuyết. Ông ta hẳn thừa rõ những gì đê tiện xấu xa xẩy ra phía sau các khẩu hiệu tuyên truyền, thừa rõ sống ở Đông Đức đâu bằng ở Thụy Điển, Hòa Lan, thừa rõ con đường từ Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni tiến đến dân chủ và hạnh phúc, phải xa hơn con đường từ Thụy Sĩ, Phần Lan.


            Mà dù cho ông ta không nghĩ như thế, cho rằng Tiệp Khắc sung sướng và tự do hơn Thụy Điển đi chăng nữa, thì sự hơn thua chút ít cũng không đến nỗi bắt phải đổi lấy bằng ba bốn cuộc chiến tranh trong đôi ba mươi năm liền. Đáng lẽ ông ta để cho dân tộc nhỏ bé đã chịu quá nhiều đọa đầy vì ngoại thuộc này được yên thân để làm ăn, để sống cho ra sống trong ít lâu.


            Đã không vì nguyện vọng, quyền lợi dân tộc, ông ta hành động vì lẽ đảng ông ta nhất định phải thắng các đảng khác. Chừng ấy tuổi tác rồi, lẽ nào vì tranh hơn thua, mà ông mạnh tay sát hại đồng bào không xót thương đến thế? Người ta có thể vì tức khí, nóng giận mà tàn nhẫn, vung tay quá đà. Đó là chuyện nhất thời. Còn ông, hăm ba năm rồi, ông dai dẳng quá.


            Vì cuồng tín chăng? Vì tự ái chăng? Vì cái gì ông ta cũng đáng trách, đáng giận quá.

            Nhưng trong vấn đề này, trách móc với giận hờn đâu có ăn thua gì. Ăn thua chỉ có chíên lược thâm hiểm, hành động thích hợp. Mà hành động thì...


            Thì rồi chắc chắn ở phía bên này thoạt tiên ai nấy sẽ nhẩy lên mừng hòa bình. Lâu lâu sẽ có người sáng suốt nhắc khẽ đến chiến tranh chính trị. Trong lúc ấy Bắc Việt lặng lẽ điều khiển cán bộ của họ ở trong này âm thầm nhen nhóm cơ sở. Rồi đôi ba năm sau, một ngày nào đó xét thấy thuận tiện, họ cho lệnh bùng nổ. Thế là chiến tranh tái diễn.


            Chiến tranh tái diễn: mọi người trên thế giới đang sống an lành bổng bị quấy rầy, bị ảnh hưởng, có một số bị lôi cuốn vào chiến cuộc, lấy làm lo ngại, bực mình, nghiêm khắc trách vấn: "Loạn lạc này đích thị do độc tài, tham nhũng, bất công, kỳ thị tôn giáo v...v.... khiến dân chúng bất mãn nổi lên chống chế độ."


            Chiến tranh ác liệt thêm: lương tâm nhân loại bị xúc phạm, các nhà triết học, các luật gia... trịnh trọng suy tư, bàn cãi, rồi lên án... Trong khi ấy các lãnh tụ Hà Nội chỉ cần khéo che miệng nín cười. Đó là điều quan trọng. Họ không được phép cười. Họ không được phép chế giễu lương tâm và trí thông minh của loài người. Họ không được vô lễ; họ chỉ được tiếp tục đánh thật mạnh.

            Cứ thế cho đến khi chúng ta chịu không nổi những đòn đánh từ bên ngoài và những dằn xóc từ bên trong, chúng ta bỏ cuộc và cộng sản tiến đến Cà Mâu..."                                                                 VÕ PHIẾN (1968)



Xem phim "Sự Thật về Hồ Chí Minh"

 www.freevietnews.com
Producer: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
Thực hiện: Phong Trào Quốc Dân Đòi Trả Tên Sài Gòn
Part 1 | Part 2 | Part 3 | Part 4 | Part 5


                                                            Xem "Chân Dung Bác Hồ" của Lê Tất Điều

 1 || 2 || 3 || 4 || 5 || 6 ||



               (Xem tiếp phần kế tiếp)

      B. VINH DANH CUÔC ĐẤU TRANH CHÍNH TRI VÀ NGOẠI GIAO.


Sách Biên Khảo


                            Giải Thể Chế Độ Cộng Sản

                                                                         Luật sư Nguyễn Hữu Thống, 2002