Sách Biên Khảo
Giải Thể Chế Độ Cộng Sản
Luật sư Nguyễn Hữu Thống, 2002
Phần Thứ Ba: Nguyên Nhân Bất Động
1. Dân lực suy kiệt
2. Dân tình chán nản
3. Dân khí suy vi
4. Dân trí bưng bít
5. Dân quyền chà đạp
PHẦN THỨ BA: NGUYÊN NHÂN BẤT ĐỘNG
Dân tộc Việt Nam không phải là một dân tộc hèn. Trong số 100 sắc tộc Việt, chỉ có Việt Nam là giữ được cá tính và chủ quyền (để không bị đồng hoá và lệ thuộc vào Trung Hoa và không biến thành một tỉnh ''Quảng Nam'', kế tiếp Quảng Đông và Quảng Tây).
Trong thế kỷ thứ l3, Việt Nam là nước Á Châu duy nhất đã đánh thắng quân Mông Cổ (Nhật Bản sở dĩ thoát hiểm một phần vì được che chở bởi đại dương và bão tố). Với một dân số ít oi nhưng dân quân một lòng, dân tộc ta đã 3 lần chặn đứng vó ngựa Mông Cổ trong mưu toan chinh phục Việt Nam và Đông Nam Á.
Trong giai doạn cận kim, Việt Nam cũng đã can đảm chống lại 2 cường quốc Tây Phương là Pháp và Hoa Kỳ (dầu rằng những cuộc chiến tranh này không phục vụ quyền lợi cuả quốc gia dân tộc). Dầu sao không ai có thể phủ nhận tinh thần quả cảm của dân tộc ta.
Vậy mà ngày nay trước một chính quyền Cộng Sản tàn bạo, thối nát, tham nhũng, bất công và bất lực, không thấy có cuộc nổi dậy nào của quốc dân để đòi giải thể Cộng Sản. Trong khi trào lưu tiến hoá của lịch sử đã báo hiệu sự suy tàn tất yếu của các chế độ Cộng Sản khắp nơi trên thế giới.
Lý do dễ thấy nhất là vì sức dân ta đã suy kiệt.
1- Dân lực suy kiệt.
Tại Đông Âu, từ sau Thế Chiến Thứ Hai, người dân đã được an hưởng thái bình trong hơn 4 thập niên (từ 1945 đến 1989). Sức dân đã được phục hồi sau chiến tranh. Những phong trào khởi nghĩa đòi giải thể Cộng Sản đã bị dập tắt trong vòng hai ba tuần. Sự đàn áp này không làm tê liệt sức đối kháng, mà chỉ là một ngọn roi quất mạnh làm khích động thêm ý chí đấu tranh của người dân.
Tại Việt Nam trái lại, 1945-1989 là giai đoạn chiến tranh triền miên bất tận làm hao mòn sinh lực quốc dân. Trong tất cả 14 thuộc địa Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương là đã lâm vào cảnh chiến tranh sắt máu. Trong khi tất cả các quốc gia khác đã giành được độc lập bằng đường lối bất bạo động, hợp tác và thương nghị.
Tại Á Châu, từ 1946 đến 1949, tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh, Hoà Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho các thuộc địa như Phi Luật Tân, (thuộc Hoa Kỳ), Syria và Lebanon (thuộc Pháp), Ấn Độ, Đại Hồi, Miến Điện, Tích Lan, Palestine (thuộc Anh), Nam Dương (thuộc Hòa Lan) và Việt Miên Lào thuộc Pháp. Tất cả các thuộc địa này đã giành được độc lập mà không phải dùng đến súng đạn, oán thù, không đòi ăn gan uống máu quân thù.
Trong khi đó Đảng Cộng Sản đã buộc người dân phải gồng mình đánh tứ phương, đánh tây (Pháp), đánh đông (Mỹ), đánh nam (Miên) và đánh bắc (Tàu). Trong ngũ cường thuộc Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết, Việt Nam đã tham chiến với 3 nước là Pháp, Hoa Kỳ và Trung Quốc. Kết quả là 3 triệu thanh niên nam nữ thuộc 3 thế hệ đã phải hy sinh thân sống trong suốt 40 năm. Hy sinh không phải để giành độc lập cho quốc gia (vì Pháp đã trả độc lập cho Việt Nam năm 1949).
Trên bình diện dân tộc, đây là những cuộc chiến tranh sai lầm và tai hại. Về tương quan lực lượng, đây là những cuộc chiến tranh không cân sức. (Năm 1949 Miền Bắc chỉ có 11 triệu dân). Chúng ta đánh Tây để rồi lại xin hợp tác với Pháp, chúng ta đánh Mỹ để rồi lại xin hợp tác với Hoa Kỳ, chúng ta đánh Tàu để rồi lại thần phục Trung quốc. Thà rằng ta hợp tác với Pháp (như Syrie và Liban), ta hợp tác với Hoa Kỳ (như Phi Luật Tân) để đỡ phải thần phục Trung Quốc, đỡ gây oán thù với Căm Bốt. Đó là về mặt đối ngoại.
Về đối nội, Đảng Cộng Sản còn ép buộc người dân phải đánh tràn lan cả đồng bào dưới hình thức đấu tranh giai cấp. Tiêu thổ kháng chiến để triệt hạ tài sản và các phương tiện mưu sinh của người dân. Đấu tố cải cách ruộng dất để sát hại hàng trăm ngàn nông dân tiểu tư sản được quy là địa chủ. Cải tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp để bần cùng hoá các trung tiểu thương và trung tiểu công nghệ. Học tập cải tạo để giam cầm hành hạ hàng trăm ngàn quân cán chính và trí thức văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Hoà. Khi hoà bình vãn hồi, hàng triệu người đã bỏ nước ra đi, hàng chục ngàn thuyền nhân đã chết thảm trong đại dương. Sức dân vì vậy mà càng suy kiệt.
Trong cuộc kháng chiến chống Mông Cổ, Đức Trần Hưng Đạo chủ trương dưỡng sức cho người dân trong kế hoạch sâu rễ bền gốc. Trong chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, đảng Cộng Sản đã đẩy dân vào chỗ chết trong suốt 40 năm để "giãi thây trăm họ làm công một người" (thần thánh hoá Hồ Chí Minh). Nếu cần họ sẵn sàng đốt sạch dẫy Trường Sơn và hy sinh cả chục triệu người để đạt được mục tiêu của họ là cướp chính quyền.
Năm 1945, trong cuộc tiếp xúc với những đại diện Cộng Sản, Thủ Tướng Trần Trọng Kim đề nghị bàn giao chính quyền quốc gia cho Việt Minh, để cùng hợp tác giữ nước. Nhưng người Cộng Sản muốn tự tay cướp lấy chính quyền nên không nhận bàn giao. Họ cho rằng có thể họ sẽ gây ra nhiều tai hại nhưng sau cùng họ sẽ thành công. Vì có hại rồi mới có lợi. Dầu người trong nước 10 phần chết 9, họ cũng không ngần ngại. Họ sẽ xây dựng một xã hội mới với số 1 phần l0 còn lại, còn hơn 9 phần kia. Đó là quyết tâm của người Cộng Sản và cũng là nhẫn tâm của người Cộng Sản (Trần Trọng Kim: Một Cơn Gió Bụi).
Kết quả là sau 40 năm chinh chiến điêu linh, dân tộc ta đã phải hy sinh quá mức. Sức dân vì vậy mà cùng kiệt.
Rất có thể làm cho sức dân suy yếu cũng lại là chính sách của Đảng Cộng Sản. Vì sau khi cướp được chính quyền, Đảng Cộng Sản không cho phép bất cứ ai được đứng lên chống đối để đòi quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Họ coi cuộc chiến đấu này là trận sau cùng, bao nhiêu lợi quyền đều về tay họ (Quốc Tế Ca). Ai không chấp nhận điều này mà còn đòi đấu tranh sẽ bị kết án là phản động, phản quốc và phản cách mạng.
2. Dân Tình Chán Nản
và Dân Khí Suy Vi
Một dân tộc cũng giống như một con người. Khi thân thể suy nhược thì tinh thần cũng suy vi. Nếu dân lực đã cùng kiệt thì dân khí cũng không thể phấn chấn lên được. Thêm một sự kiện đặc thù của Việt Nam: Từ 1945 hàng triệu người đã hăng say gia nhập Mặt Trận Việt Minh và Đảng Cộng Sản. Thúc đẩy bởi động lực tinh thần đòi giải phóng dân tộc và giải phóng con người, 3 thế hệ thanh niên nam nữ với lòng hào hiệp và quả cảm đã nhất loạt đứng lên đấu tranh giành độc lập để đòi lại quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Họ đã chấp nhận mọi hy sinh gian khổ. Vì họ kỳ vọng rằng, dưới sự lãnh đạo của những người tự nhận là sáng suốt (như Hồ Chí Minh) và những người tự nhận là yêu nước (như Nguyễn Ái Quốc), rồi đây những mục tiêu độc lập, thống nhất, tự do, hạnh phúc, công bằng bác ái v.v... sẽ được thực hiện cho đất nước được giải phóng và đồng bào được tự do no ấm.
Vậy mà ngay trong thời kháng chiến Đảng Cộng Sản đã phụ lòng tin cậy của quốc dân. Họ đã phủ nhận chủ nghĩa dân tộc, phủ nhận nền độc lập và thống nhất quốc gia do Pháp trao trả cho Việt Nam năm 1949 bởi Hiệp Định Élysée ngày 8-3-1949. Năm 1947, 3 nước Việt Miên Lào đã được Pháp đăng ký tại Liên Hiệp Quốc là những quốc gia độc lập. Năm 1949 Tổng Thống Vincent Auriol đã ký 3 hiệp định với 3 vị nguyên thủ quốc gia là Bảo Đại, Sisavangvong và Sihanouk để trả độc lập cho Việt Nam (ngày 8-3-1949), cho Ai Lao (ngày 20-7-1949) và cho Cao Miên (ngày 8-11-1949) theo tinh thần Hiệp Định Elysée. (Chính Đạo: Việt Nam Niên Biểu l939-l975).
Mặc dầu vậy, Đảng Cộng Sản Đông Dương đã phủ nhận nền độc lập này. Họ tiếp tục đẩy tới chiến tranh võ trang trong suốt 40 năm từ 1949 đến 1989, chống Pháp, chống Mỹ, chống Miên và chống Tàu.
Trên bình diện dân tộc, đây là những cuộc chiến tranh vô ích và vô nghĩa. Kết quả là 3 triệu thanh niên nam nữ Việt Nam phải hy sinh thân sống và 2 triệu người Miên đã bị sát hại bởi phe Khmer Đỏ.(50 ngàn người Việt đã bị tử thương tại Kampuchia.) Nếu Đảng Cộng Sản Đông Dương không phủ nhận nền độc lập do Pháp trao trả cho 3 nước Đông Dương trong năm 1949, thì 3 cuộc chiến tranh Đông Dương đã không xảy ra, và 5 triệu người đã không phải hy sinh vô ích từ 1949 đến 1989. Cũng như 3 triệu dân Triều Tiên đã hy sinh trong chiến tranh ý thức hệ giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ từ 1950 đến 1953.
Sau khi cướp được chính quyền, ĐCS còn tiếp tục dối gạt đồng bào.
a)- Về mục tiêu độc lập, Hồ Chí Minh thường nói: " Không gì quý hơn độc lập tự do". Đây chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền. Và như ta đã thấy ĐCS đã phủ nhận nền độc lập trong Hiệp Định Élysée 1949 vì Hiệp Định này không trao cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia. Đối với ĐCS, chính quyền quý hơn độc lập tự do.
b) Về mục tiêu tự do dân chủ, Đảng Cộng Sản hứa hẹn sẽ xây dựng một chế độ dân chủ gấp triệu lần các chế độ dân chủ tư sản Tây Phương. Đây cũng chỉ là một luận điệu tuyên truyền.
Trong số 4 quyền tự do dân chủ như tự do tôn giáo, tự do báo chí, tự do lập hội, và tự do tuyển cử, ĐCS đã không tôn trọng và thực thi bất cứ một quyền nào. Họ chủ trương tiêu diệt tôn giáo theo chủ thuyết, và đàn áp tôn giáo theo chính sách. Họ không cho phép người dân được quyền ra báo và đã vi phạm thô bạo quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Ai nói hay viết điều gì trái với chính sách của Đảng sẽ bị truy tố và kết án về các tội lạm dụng quyền dân chủ, tuyên truyền chống chế độ, phản quốc, phản nghịch hay âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân v.v... Ngoài ra, ĐCS không tôn trọng quyền tự do lập hội và lập đảng của người dân. Họ chỉ hợp thức hóa các hội dân sự nhà nước như các công đoàn quốc doanh, giáo hội quốc doanh, và các đoàn thể cứu quốc là các tổ chức ngoại vi của ĐCS. Về các hội chính trị, Đảng CS là độc đảng với độc quyền lãnh đạo.
Với chủ trương "đảng cử dân bầu", Đảng CS đã tước đoạt quyền tự do tuyển cử của người dân. Chúng ta không so sánh Việt Nam với các quốc gia dân chủ Tây Phương mà chỉ đối chíêu với nước láng giềng Căm Bốt. Chúng ta thấy tại Căm Bốt tương đối có tự do tôn giáo, tự do báo chí, tự do lập đảng (có 3 đảng của Hun Sen, Ranariddh và Rainsy) và có tự do tuyển cử (trong cuộc tuyển cử vừa qua, Đảng Nhân Dân của Hun Sen chỉ được 43% số phiếu, trong khi Đảng Bảo Hoàng của Ranariddh và Đảng Quốc Gia của Rainsy chia nhau hơn 50%số phiếu). Nghĩa là về mặt dân chủ, chúng ta kém xa Căm Bốt. Và hiện nay trên bậc thang dân chủ Việt Nam đứng chót trong số 190 quốc gia trên thế giới, ngang với Bắc Hàn.
c) Về mục tiêu mưu cầu hạnh phúc, Đảng Cộng Sản đã áp dụng một chính sách kinh tế xã hội nhà nước lạc hậu và đã đưa dân tộc và đất nước đến lầm than, đói khổ. Lợi tức bình quân mỗi đầu người tại Việt Nam chỉ bằng 1/50 tại Tân Gia Ba, 1/15 tại Mã Lai, 1/10 tại Thái Lan, 1/4 tại Nam Dương hay Phi Luật Tân và không bằng 1/3 tại Congo. Lợi tức bình quân mỗi đầu người tại Congo năm 1996 là 990 mỹ kim so với 290 mỹ kim tại Việt Nam. (Atlas Observation du Monde (1999) và Britannica Book of the Year 1997). (1)
Thêm vào đó, những bất công và bất bình đẳng xã hội trầm trọng đã gây nên sự chênh lệch giàu nghèo quá đáng và lợi tức thật sự của ngừơi dân trung bình tại nông thôn còn kém xa con số lý thuyết 290 mỹ kim một năm. Và ngày nay Việt Nam là một trong số 10 quốc gia nghèo đói nhất trên thế giới.
d) Về mục tiêu công bằng xã hội, Đảng Cộng Sản đã dùng khẩu hiệu Người Cày Có Ruộng làm bánh vẽ để buộc bần cố nông phải đấu tố và sát hại các trung tiểu nông mà họ gọi là điạ chủ. Chỉ cần có 2 mẫu tây ruộng mà không tự tay canh tác cũng bị quy vào thành phần địa chủ và bị đấu tố, tịch thâu ruộng đất và nhà cửa. Có người chỉ có 1.8 mẫu ta ruộng hương hỏa (6500m2) cũng bị kết án là địa chủ. (Dương Thu Hương, Những Thiên Đường Mù). Sở dĩ các trung tiểu nông bị đôn lên hàng địa chủ vì theo lệnh của đảng, mỗi làng phải đấu tố tối thiểu 5% dân số.
Tới năm 1956, sau 5 đợt đấu tố cải cách ruộng đất, ĐCS đã chia cho bần cố nông mỗi người vài ba sào ruộng (1 sào ta= 360m2). Và 2 năm sau, năm 1958, Đảng Cộng Sản lại trở mặt thâu hồi toàn thể ruộng đất mới chia cho bần cố nông trong chính sách hợp tác hóa nông nghiệp hay tập sản hoá ruộng đất.
Theo chủ thuyết, ĐCS không công nhận quyền tư hữu của người dân, do đó Người Cày Có Ruộng là một khẩu hiệu tuyên truyền gian trá trắng trợn nhất của ĐCS.
Trong các chiến dịch đấu tố, ĐCS đã buộc con phải đấu tố cha mẹ, nàng dâu đấu tố mẹ chồng, gây nên sự đảo lộn luân thường đạo lý. Mục đích để phá vỡ gia đình, phá vỡ nền móng văn hoá đạo đức truyền thống của dân tộc:
Trời làm một trận lăng nhăng
Ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông
Trời làm một trận lông nhông
Thằng hoá ra ông, ông hoá ra thằng.
Trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất, ĐCS đã buộc những người nông dân nghèo khổ phải nhúng tay vào máu, phải chém giết những người nông dân lương thiện.
Giết giết nữa, bàn tay không phút nghỉ!
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt!
(Tố Hữu)
Giết nông dân tiểu tư sản để cướp ruộng cấy luá. Lúa tốt không phải để nuôi gia đình vợ con mà để đóng đủ vài chục thứ thuế cho Đảng bền lâu. Đảng bền lâu không phải để đưa dân tộc đến tự do hạnh phúc, mà để thờ Mao Trạch Đông, thờ Stalin, là 2 kẻ tội đồ của nhân loại đã sát hại gần một trăm triệu con người nhân danh vô sản chuyên chính.
Giáo dục CS đã hủy diệt những tình cảm tự nhiên trong Đạo Làm Người như tình gia đình, tình thày trò, tình bạn bè, tình lối xóm v.v... Từ nay các học sinh phải đề cao cảnh giác tố cáo cha mẹ, thày giáo, anh chị em, bạn bè, lối xóm để được xứng đáng là cháu ngoan của Bác Hồ.
Một xã hội xây dựng trên dối trá, tàn ác, độc tài, tham nhũng, bất công và bất lực, đi tôn thờ những kẻ sát nhân khát máu không thể là một xã hội công bằng và văn minh.
Cũng vì vậy mà sau hơn nửa thế kỷ hy sinh và chịu đựng, dân tộc ta đã tỉnh ngộ và thấy mình bị lường gạt, phản bội. Cả ba thế hệ con người cảm thấy xót xa, cay đắng và thất vọng như kẻ thất tình. Cả một dân tộc đã bị thất vọng về mối tình đầu của tuổi thanh xuân.
Với dân lực suy kiệt, dân tình chán nản, dân khí suy vi, con người trở thành bi quan, yếm thế. Họ hoài nghi đối với tất cả mọi việc, với tất cả mọi người. Họ không tin vào những lý tưởng cao đẹp như độc lập, tự do, hạnh phúc, công bằng, bác ái. Vì ĐCS đã sử dụng những mục tiêu này như những chiêu bài, những bánh vẽ để dối gạt họ. Họ cũng không tin vào bất cứ ai. Vì những người mà họ tin là sáng suốt (như Hồ Chí Minh), yêu nước (như Nguyễn Ái Quốc), rốt cuộc chỉ lợi dụng họ, lường gạt họ để đạt mục tiêu riêng tư, "giãi thây trăm họ làm công một người".
Do đó người dân không dám tin vào những mục tiêu mới, những con người mới. Họ không tin vào lòng thiện của con người và không tin vào con người nữa. Thái độ của họ là buông trôi, yếm thế. Cả một dân tộc đã bị phản bội và mất Niềm Tin.
Ở những chỗ riêng tư họ cũng mạnh dạn phê phán, lên án những kẻ lợi dụng họ, phản bội họ. Nhưng nếu nói đến hành động, đứng lên để đòi những mục tiêu mới, đi theo những con người mới, thì họ lại hòai nghi vì họ không còn tin vào con người nữa và cũng không tin vào lý tưởng nữa. Đó là nói về những người có học thức và có ý thức.
3. Dân trí bị bưng bít,
dân quyền bị chà đạp.
Đối với quảng đại quần chúng trong suốt nửa thế kỷ vừa qua "người dân nông thôn không biết cái gì tồn tại trên đời ngoài Đảng CSVN" (Hà Sĩ Phu). Với bộ máy tuyên truyền vĩ đại quốc nội và quốc tế, Đảng CS đã xuyên tạc lịch sử và đã xây dựng huyền thoại Hồ Chí Minh và những hào quang của Đảng CS. Bằng những thủ đoạn ngụy trang dối trá, họ đã dùng giả nhân giả nghĩa để cướp lấy chính nghĩa mà toàn dân theo đuổi như độc lập thống nhất, tự do hạnh phúc, công bằng, bác ái v..v...
Chẳng những người dân bị nhồi sọ và bưng bít, ngay cả thế giới bên ngoài, rất nhiều các nhà trí thức và các nhà lãnh đạo quốc gia cũng đã bị mê hoặc vì huyền thọai Hồ Chí Minh. Họ cũng biết Hồ Chí Minh là cán bộ Quốc Tế CS phụ trách miền Đông Nam Á. Nhưng dầu sao căn cứ vào những thành tích đấu tranh chống chế độ thuộc địa từ thập niên 1920, Hồ Chí Minh vẫn được coi là người anh hùng giải phóng dân tộc và giải phóng lao động.
Về tác phong và đạo đức, họ vẫn hình dung Hồ Chí Minh là một nhà lãnh tụ nhân ái được toàn dân quí mến, một người xuất thân từ một gia đình gia giáo, có văn hoá và đạo lý cổ truyền. Nói tóm lại, đối với họ, Hồ Chí Minh chỉ khoác cái vỏ CS bên ngòai nhưng là một người CS nhân bản đã lãnh đạo dân tộc đến thành công trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho quốc gia và tự do hạnh phúc cho đồng bào.
Cũng vì vậy mà 6 tháng sau phong trào giải thể CS tại Đông Âu năm 1989, Tổ Chức Văn Hoá LHQ còn dự tính làm lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhật Hồ Chí Minh tại Paris ngày 19-5-1990.
*
* *
Có thể nói thế giới đã không biết hay không muốn nhắc đến sự kiện lịch sử là năm 1949, Pháp đã trao trả độc lập cho Việt Nam do Hiệp Định Elysée ký kết ngày 8-3- l949 giữa Tổng Thống Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại. Và cũng trong năm này, Tổng Thống Vincent Auriol còn ký với Quốc Vương Sisavangvong Hiệp Định ngày 20-7-l949 để trả độc lập cho Ai Lao và cũng đã ký với Quốc Vương Sihanouk Hiệp Định ngày 8-11-l949 để trả độc lập cho Cao Miên. Ngoài ra, 2 năm trước đó, năm 1947, sau khi chính phủ Anh đăng ký 2 nước Ấn Độ và Đại Hồi là những quốc gia độc lập tại LHQ thì chính phủ Pháp cũng đã đăng ký 3 nước Đông Dương Việt, Miên, Lào là những quốc gia độc lập tại LHQ. (Everyone's United Nations l986, trang 332)
Như vậy, sự thật lịch sử nếu được phát giác sẽ chứng minh rằng 3 cuộc chiến tranh Đông Dương kéo dài hơn 40 năm từ 1946 đến 1989 là những cuộc chiến tranh vô ích và tai hại. Kết quả là 3 triệu thanh niên nam nữ Việt Nam đã phải hy sinh không phải để giành độc lập cho quốc gia, mà chỉ để tạo điều kiện cho Đảng CS cướp chính quyền. Năm 1949, nếu Hồ Chí Minh biết đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên quyền lợi của Đảng CS thì ông ta đã phải thừa nhận nền độc lập do Pháp trao trả cho 3 quốc gia Đông Dương trong 3 Hiệp Định ký kết tại Paris.Và như vậy, 3 cuộc chiến tranh Đông Dương đã không xảy ra và phe Khmer Đỏ cũng đã không có dịp sát hại gần 2 triệu đồng bào của họ.
Để giành độc quyền lãnh đạo, ĐCS một mặt hô hào tòan dân đoàn kết, mặt khác đã ra lệnh thủ tiêu những nhà lãnh tụ có uy tín và hậu thuẫn quần chúng như trong nhóm Tân Tả Phái của Tạ Thu Thâu, Phan văn Hùm, Trần Văn Thạch, các nhóm Lập Hiến của Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo, các nhà lãnh đạo các tôn giáo như Đức Huỳnh Phú Sổ, các nhà lãnh tụ các đảng phái quốc gia như Trương Tử Anh, Lý Đông A, Khái Hưng, Nhượng Tống, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ngà v.v...
Đảng Cộng Sản cũng đã tàn sát tập thể các giới đồng bào, tàn sát vì lý do tôn giáo, như việc sát hại các giáo hữu Cao Đài tại Củ Chi trong Chiến Tranh Đông Dương (1946); tàn sát tập thể vì lý do chính kiến như việc sát hại 5 ngàn người quốc gia tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân (l968); tàn sát tập thể vì lý do thành phần xã hội, như việc đấu tố hàng trăm ngàn trung tiểu nông trong 5 đợt cải cách ruộng đất. Tại các đô thị họ đã phát động những chiến dịch cải tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp để bần cùng hoá các nhà tư sản, các trung tiểu thương và trung tiểu công nghệ.
Sau khi hòa bình vãn hồi, trong khi vẫn hô hào hòa giải và hoà hợp dân tộc, Đảng CS đã giam giữ và hành hạ hàng trăm ngàn quân cán chính và trí thức văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Hoà.
Ngày nay sau hơn 50 năm dưới quyền lãnh đạo của ĐCS, đất nước vẫn lạc hậu và dân chúng vẫn lầm than. Người dân bị tước đoạt mọi quyền tự do dân chủ, tôn giáo bị đàn áp, công dân không có tự do tư tưởng, tự do phát biểu, không được xuất bản báo chí, không được tự do hội họp, tự do lập hội, tự do lập đảng, tự do tuyển cử và không được tham gia chính quyền.
Trên bậc thang tự do dân chủ, Việt Nam ngày nay đứng chót trong số 190 quốc gia trên thế giới (kém cả Cam Bốt). Về mặt kinh tế xã hội, Việt Nam ngày nay là một trong số 10 nước nghèo đói nhất trên thế giới (kém cả Congo).
Để thanh trừng các phần tử đối kháng, Đảng CS đã sử dụng bộ máy tuyên truyền vĩ đại với hàng trăm tờ báo, các đài truyền thanh truyền hình và hàng ngàn cán bộ tuyên truyền. Họ dùng thủ đoạn hô hoán "Tăng Sâm giết người" để chúng khẩu đồng từ vu oan giá họa cho những người có lòng với đất nước dám đứng lên đấu tranh đòi tự do dân chủ là phản động, phản quốc, phản cách mạng, tay sai đế quốc v...v... (xin coi phần sau: 27 dân quyền bị chà đạp).
Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, ngọai trừ Đảng CSĐD, tất cả các chính đảng quốc gia tại Á Châu đều theo đường lối đấu tranh bất bạo động và hợp tác thương nghị với các đế quốc cũ. Vì từ năm 1919 khi Tổng Thống Wilson đề ra quyền Dân Tộc Tự Quyết trong Chương Trình 14 Điểm tại Hội Quốc Liên, trào lưu tiến hóa tất yếu của lịch sử là sự giải thể tiệm tiến của các đế quốc tư bản Tây Phương để từng bước trả tự trị và độc lập cho các thuộc địa.
Năm 1919, Gia Nã Đại được trao trả độc lập và được gia nhập Hội Quốc Liên. Cũng trong năm này, Chính phủ Anh ban hành Luật Tổ Chức Chính Quyền Ấn Độ, cho phép người dân bản xứ được quyền tham gia vào các chức vụ công cử. Luật sư Nerhu (người cha) đã được bầu làm chủ tịch quốc hội tại Tiểu bang Punjab. Năm 1931, Hiến Pháp Tích Lan ban hành qui chế tập sự tự trị trong 15 năm. Năm 1935, một đạo luật của Quốc Hội Hoa Kỳ thừa nhận Phi Luật Tân là một quốc gia tự trị để sau 10 năm sẽ được trao trả chủ quyền độc lập.
Năm 1936, chính phủ Xã Hội Pháp Léon Blum trao trả tự trị cho Syria và Lebanon và 10 năm sau, năm 1946, đã trả độc lập cho 2 quốc gia này. Năm 1947 và 1948 đế quốc Anh đã tự giải thể tại Á Châu và trao trả độc lập cho các nước Ấn Độ, Đại Hồi, Miến Điện, Tích Lan và Palestine (quốc gia Do Thái cũng được thành lập năm 1948). Đến năm 1949, Pháp trao trả độc lập cho 3 quốc gia Đông Dương, Việt, Miên, Lào, và Hòa Lan cũng đã họp Hội Nghị Bàn Tròn La Haye để trả độc lập cho Nam Dương. Nghĩa là trong thời gian 4 năm từ 1946 đến 1949, tất cả các đế quốc Tây Phương như Anh, Mỹ, Pháp, Hòa Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho các thuộc địa Á Châu.
Năm l942, Chủ Tịch Quốc Hội Trung Hoa là Tôn Khoa (con trai Tôn Dật Tiên) cũng đề nghị bản Hiến Chương Thái Bình Dương để yêu cầu các quốc gia đồng minh Tây Phương trao trả độc lập cho Ấn Độ, Việt Nam, Triều Tiên và Phi Luật Tân khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc.
Khác với Đảng Cộng Sản Đông Dương, các đảng quốc gia lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc tại Á Châu đã không phải dùng đến bạo động võ trang, căm hờn và thù hận. Họ ý thức rằng các đế quốc Tây Phương chỉ là những ngoại thương có thể trị liệu được.
Chứ hiểm họa CS, một khi đã mắc phải, sẽ biến thành chứng ung thư gây tai họa vô lường cho đất nước và dân tộc. Nhận định này phù hợp với đường lối của các nhà lãnh đạo phe Thế Giới Dân Chủ như Mỹ, Anh, Pháp, Hoà Lan. Nếu Tổng Thống Truman đã trả độc lập cho Phi Luật Tân năm 1946, Thủ Tướng Attlee đã trả độc lập cho Ấn Độ, Đại Hồi, Miến Điện, Tích Lan, Palestine trong những năm 1947-1948, thì năm 1949 Tổng Thống Vincent Auriol đã trả độc lập cho Việt Nam, Ai Lao, Cao Miên và Chính Phủ Lao Động Hoà Lan cũng đã trả độc lập cho Nam Dương.
Thái độ dứt khoát của phe dân chủ Tây Phương được thúc đẩy bởi những biến chuyển thời cuộc. Đầu năm 1949, Tưởng Giới Thạch bỏ lục địa Trung Hoa di tản sang Đài Loan. Ngày 22-1-1949, Trung Cộng chiếm Bắc Kinh và mùa thu năm đó, kéo đại quân tới sát biên giới Việt Nam. Theo sách lược của Quốc Tế CS, cuộc xích hoá lục địa Trung Hoa sẽ mở đầu cho cuộc xích hoá 2 bán đảo Đông Dương và Triều Tiên.
Trong khi đó tại Đông Âu, Liên Xô đã thôn tính 3 nước Baltic là Lithuania, Estonia, Latvia và thiết lập một hệ thống chư hầu mệnh danh là bức màn sắt gồm 7 nước: Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Albania, Bulgaria và Romania.
Vì Nguyễn Ái Quốc là cán bộ Quốc Tế Cộng Sản phụ trách vùng Đông Nam Á nên phe Thế Giới Dân Chủ nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương . Vì họ không muốn Stalin mở rộng bức màn sắt từ Đông Âu qua Đông Á. Do đó, năm 1949 Pháp đã yêu cầu 3 nước Đông Dương gia nhập Liên Hiệp Pháp để có danh nghĩa sử dụng quân đội Liên Hiệp Pháp vào việc bảo vệ biên thùy của Đông Dương đồng thời cũng là biên thùy của Liên Hiệp Pháp. Qua năm sau, năm 1950, quân đội Hoa Kỳ cũng đã chiến đấu dưới danh nghĩa Liên Hiệp Quốc để bảo vệ biên thùy của Nam Hàn đồng thời cũng là biên thùy của Thế Giới Dân Chủ.
Đầu năm 1953, trong bài diễn văn nhậm chức tại quốc hội Hoa Kỳ, Tổng Thống Eisenhower có nói: " Quân đội Pháp chiến đấu tại Đông Dương và quân đội Mỹ chiến đấu tại Triều Tiên cùng có một mục đích như nhau" (bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ). Và theo Tổng Thống Kennedy, năm 1960 biên thùy của Thế Giới Dân Chủ chạy từ Tây Bá Linh qua vĩ tuyến 38 tại Triều Tiên và vĩ tuyến 17 tại Việt Nam.
Chú Thích
(1) 10 năm sau, năm 2006 lợi tức bình quân mỗi đầu người tại Congo là 1,569 mỹ kim so với 656 mỹ kim tại Việt Nam (The Time Almanac 2009 với sự yểm trợ của Encyclopedia Britannica )
(còn tiếp)
Phần Thứ Tư: Đường Hướng Đấu Tranh
I. Phục Hồi Sự Thật Lịch Sử
A. Giải Tỏa Huyền Thoại Hồ Chí Minh
B. Vinh Danh Cuộc Đấu Tranh Chính Trị và Ngoại Giao
C. Giải Tỏa Hào Quang Đảng Cộng Sản
1. Về mục tiêu độc lập thống nhất
2. Về mục tiêu tự do dân chủ
3. Về mục tiêu mưu cầu hạnh phúc
D. Giã Từ Dối Trá
II. Khôi Phục Đạo Làm Người
A. Những Lý Tưởng Truyền Thống của DânTộc
B. Tuyên Ngôn Dân Quyền Cho Việt Nam
C. Nho Học và Phát Triển
D. Tiếng Vọng Nhân Quyền Trên Thế Giới